Tại Trung tâm Khảo kiểm nghiệm phân bón Quốc
gia, các hệ thống sắc ký khí được trang bị đầy đủ các loại đầu dò (FID, TCD,
ECD, FPD, NPD, MS) có khả năng phân tích được nhiều loại hợp chất hữu cơ trong
các nền mẫu khác nhau.
1. Sơ lược về hệ thống GC
Mẫu được bơm vào trong và theo dòng khí mang (khí mang thường là heli,
argon, hoặc nitơ) đưa đến cột sắc ký (pha tĩnh). Hầu hết các phương pháp sắc ký
khí phân tích sử dụng cột mao quản, nơi các lớp pha tĩnh được tráng lên thành
một ống có đường kính nhỏ trực tiếp (tức 0,25 m phim trong một ống 0,32 mm). Mẫu
khi qua cột này sẽ được hấp phụ lên trên pha tĩnh đó. Sau đó, các chất lần lượt
tách khỏi cột theo dòng khí ra ngoài được ghi nhận bởi đầu dò. Việc tách các
hợp chất dựa trên những thế mạnh khác nhau của sự tương tác của các hợp chất
với pha tĩnh (theo nguyên tắc "like-dissolves-like"). Là các tương
tác mạnh mẽ, còn các hợp chất tương tác với pha tĩnh, và nhiều thời gian cần
thiết để di chuyển qua cột (= thời gian lưu giữ lâu hơn). Trong ví dụ trên, hợp
chất X tương tác mạnh mẽ hơn với các pha tĩnh, và do đó thiếu đằng sau hợp chất
O trong chuyển động của nó thông qua các cột. Kết quả là, hợp chất O có một
thời gian lưu ngắn hơn nhiều so với hợp chất X. Từ các tín hiệu nhận được máy
tính sẽ xử lý và biểu hiện kết quả bằng sắc ký đồ. Các chất được xác định nhờ
giá trị thời gian lưu trên sắc ký đồ.

Sơ đồ hệ thống sắc ký khí
Hệ
thống sắc ký khí bao gồm các thành phần cơ bản như sau:
1.1. Nguồn cung cấp khí mang: Có thể sử dụng bình chứa khí
hoặc các thiết bị sinh khí (thiết bị tách khí N2 từ không khí, thiết bị cung
cấp khí H2 từ nước cất, bình khí Heli…).
1.2. Lò
cột: dùng để điều khiển nhiệt độ cột phân tích
1.3. Bộ
phận tiêm mẫu
Bộ phận tiêm mẫu dùng để đưa mẫu vào cột phân tích theo với thể
tích bơm có thể thay đổi. Khi đưa mẫu vào cột, có thể sử dụng chế độ chia dòng
(split) và không chia dòng (splitless).
Có
2 cách đưa mẫu vào cột: bằng tiêm mẫu thủ công và tiêm mẫu tự động (Autosamper
– có hoặc không có bộ phận hóa hơi - headspace).
1.4. Cột
phân tích
Có
2 loại cột: cột nhồi và cột mao quản.
- Cột
nhồi (packed column): pha tĩnh được nhồi vào trong cột, cột có đường kính 2-4mm
và chiều dài 2-3m.
- Cột mao quản (capillary): pha tĩnh được phủ mặt trong (bề dày
0.2-0.5µm), cột có đường kính trong 0.1-0.5mm và chiều dài 30-100m.

Cột nhồi và cột mao quản
1.5. Đầu
dò
Đầu dò dùng phát hiện tín hiệu để định tính và định lượng các chất
cần phân tích. Có nhiều loại đầu dò khác nhau tùy theo mục đích phân tích như
đầu dò ion hóa ngọn lửa (FID-Flame Ioniation Detetor), đầu dò dẫn nhiệt
(TCD-Thermal Conductivity Detector), đầu dò cộng kết điện tử (ECD-Electron
Capture Detector), đầu dò quang hóa ngọn lửa (FPD-Flame Photometric Detector),
đầu dò NPD (NPD-Nitrogen Phospho Detector), đầu dò khối phổ (MS-Mass
Spectrometry).
1.6. Bộ
phận ghi nhận tín hiệu
Bộ
phận này ghi tín hiệu do đầu dò phát hiện, lưu các thông số, sắc ký đồ, các
thông số liên quan đến peak như tính đối xứng, hệ số phân giải,… đồng thời tính
toán, xử lý các thông số liên quan đến kết quả phân tích.
2. Một số hệ thống GC tại NCFT
Cùng với sự phát triển của kỹ thuật sắc ký, sắc ký khí là công cụ
hữu hiệu trong nghiên cứu khoa học đặc biệt trong lĩnh vực hóa học phân tích.
Phương pháp sắc ký khí là một trong những phương pháp được sử dụng phổ biến
trong việc phân tích các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi trong các loại nền mẫu theo
chuỗi giá trị sản phẩm như đất, nước, không khí, phân bón, nông sản, thực phẩm,
thức ăn chăn nuôi, thức ăn thủy sản…
Tại NCFT, các hệ thống sắc ký khí của hãng Bruker với các đầu dò
như FID, ECD, NPD, FPD, TCD, MS có khả năng phân tích được các hợp chất hữu cơ
có bản chất khác nhau. Các hệ thống GC đều có gắn các bộ phận bơm mẫu tự động
(Autosampler) và bộ phận hóa hơi (Headspace).

Hệ thống 450 – GC

Hệ thống GC/MS/MS
Công nghệ GC-MS 3 tứ cực cho phép các
nhà khoa học tăng độ đặc hiệu phân tích và đạt được kết quả sàng lọc mục tiêu
có độ chính xác cao cũng như định lượng các chất ở nồng độ thấp trong mẫu nền
phức hợp. Ảnh hưởng của mẫu nền giảm đi đáng kể, tính toán phân tách các đỉnh
sắc ký dễ dàng hơn. Các kỹ thuật ghi phổ có độ nhạy cao được sử dụng tùy thuộc
vào ứng dụng cụ thể:
- SRM – kiểm soát phản ứng lựa chọn: cô lập ion cần chọn, sau đó
phân mảnh ion cô lập đó, trong các mảnh ion sinh ra, cô lập 1 mảnh ion con cần
quan tâm và đưa vào đầu dò để phát hiện.

(Nguồn ảnh: Tạp chí Nature)
- MRM – kiểm soát đa phản ứng: Đầu tiên, cô lập ion cần chọn
(ion mẹ) ở tứ cực thứ nhất, phân mảnh ion cô lập đó tại tứ cực thứ
2 (thực chất là buồng va chạm) thu được các ion con, cô lập 2 (hoặc
nhiều) ion con cần quan tâm ở tứ cực thứ 3 và đưa vào đầu dò để phát
hiện.

(Nguồn ảnh: mrmproteomics.com)
Công nghệ MRM được sử dụng trong proteomic cho phép các nhà khoa
học chọn ra các peptide đang quan tâm, và từ đó xác định được chính xác nồng độ
của nó.

Hình ảnh so sánh 2 chế độ MS/MS thường và MRM-MS
(Nguồn ảnh: broadinstitute.org)
- H-SRM – kiểm soát phản ứng độ lựa chọn cao.
- U-SRM – kiểm soát phản ứng độ lựa chọn cực cao.
Hàng trăm hợp chất có thể được phân tích chỉ trong một lần bơm mẫu
khi sử dụng chế độ SRM hẹn giờ, chức năng tự động điều chỉnh thời gian SRM cho
các điểm chọn phù hợp các peak ngay cả khi có sự xen phủ của các phân đoạn.

Hình 6: Phổ ion khi phân tích bằng GC/MS-MS của chlordane
(một loại thuốc trừ sâu hữu cơ có chứa clo) trong mẫu trầm tích. Các ion bố mẹ
được phân lập (trong ví dụ này m/z là 373) và sau đó bị phân mảnh. Các ion tạo
thành từ ion bố mẹ này tạo ra phổ như trong hình, từ đó cải thiện được độ chọn
lọc và cho phép xác nhận sự có mặt của chlordane trong mẫu.

Hình 7: phân tích DDT trong nước mặt bị nhiễm bẩn
Trên hình 7 là phổ đồ toàn dải của dichlorodiphenyltrichloroethane
(DDT) trong nước mặt bị nhiễm bẩn khi phân tích bằng GCMS 3 tứ cực. Do ảnh
hưởng của nhiễu nền, việc định lượng DDT bằng phương pháp này không sử dụng
được. Phổ đồ ở giữa là quá trình phân tích bằng GCMS nhưng sử dụng chế độ SIM.
Nhiễu nền đã giảm nhưng vẫn chưa đủ để định lượng DDT. Ở phồ đồ dưới cùng không
còn ảnh hưởng của nhiễu nên, đó là khi áp dụng kỹ thuật SRM, bằng việc điều
chỉnh chuyển hóa các ion mẹ DDT ở m/z 234.94 để tạo ra các ion con ở m/z 164.96,
tất cả các ảnh hưởng nhiễu nền đều bị loại bỏ. Điểm hạn chế duy nhất đó là do
giới hạn lượng mẫu được phân tách thực tế trên cột sắc ký trước đó.

Hình 8: Dữ liệu phổ toàn bộ khi phân tích đồng thời các
thuốc trừ sâu
Việc phân tích đồng thời các thuốc trừ sâu khi sử dụng chế độ SRM
có điều chỉnh thời gian với hệ GCMS 3 tứ cực. Sắc ký đồ ở hình 8 cho thấy toàn
bộ dải dữ liệu thu được của một loạt các hợp chất đồng thời được rửa giải, công
nghệ này cho phép thiết bị tối ưu hóa với từng hợp chất để xử lý kịp thời toàn
bộ khối lượng lớn dữ liệu này và còn cho độ chính xác và độ lặp lại rất cao.
Điều này giúp các nhà nghiên cứu có thể tập trung làm việc với các qui trình
trong phòng thí nghiệm khác mà không cần phải quá quan tâm đến kết quả của quá
trình phân tích này.
Nguồn bài: labcompare.com
& labnews.co.uk
3. Ứng dụng hệ thống GC phân tích tại NCFT
Hệ thống sắc ký khí với các loại đầu dò, Trung tâm Quốc gia có thể
phân tích được hầu hết các hợp chất thuốc trừ sâu họ Chlor (Aldrin, Eldrin,…),
họ Phospho (Chlorpyriphos, Diazinon,…) họ Cúc (Cypermethrin, Deltamethrin,…),
các loại thuốc diệt cỏ, diệt nấm trong các nền mẫu nông sản, thực phẩm, thủy
hải sản, môi trường… phục vụ công tác an toàn vệ sinh cho các loại hàng hóa lưu
thông trong nước và xuất khẩu.
Phân
tích các chỉ tiêu trong nước theo quy chuẩn của Bộ Y tế (QCVN 01:2009/BYT) và
các quy chuẩn khác.
Phân
tích 23 hoạt chất amin thơm trong sản phẩm dệt may.
Phân
tích hơn 20 amino acid trong thực phẩm, phân bón, chế phẩm sinh học,…
Phân
tích BTX (Benzen – Toluen – Xylen) và một số hợp chất bay hơi khác trong không
khí.